Tiền tệ Kinh_tế_Việt_Nam_thời_Nam_Bắc_triều

Chiến tranh ác liệt trong nhiều năm, nguyên liệu để đúc tiền chủ yếu là sắt, đồng và kẽm được ưu tiên sử dụng cho đúc vũ khí phục vụ chiến tranh khiến việc đúc tiền phục vụ nền kinh tế thời kỳ này bị hạn chế. Tiền trong nước của hai triều đại đúc ra đều thiếu, một lượng lớn các đồng tiền ngoại nhập đã được đưa vào Đại Việt và được chấp nhận để bổ sung cho sự thiếu hụt tiền tệ nhằm lưu thông được điều hòa[27].

Nhà Mạc bắt đầu đúc tiền năm 1529. Các nhà khảo cổ phân tích và chỉ ra rằng tiền nhà Mạc thời Minh Đức, Đại Chính là tiền đồng có khối lượng rất chuẩn, chất đồng tốt, thư pháp đẹp như những đồng tiền thời Lê sơ[28]. Tuy nhiên, tiền nhà Mạc đúc ra không nhiều, loại tiền thông bảo kích thước lớn chủ yếu mang ý nghĩa chính trị, còn tiền phổ biến phục vụ lưu thông là tiền gián pha kẽm kích thước nhỏ[29].

Tỷ lệ giá trị được duy trì như thời Lê sơ: 1 quan = 10 tiền (mạch) = 600 đồng[30].

Các đồng tiền được chính thức xác định của nhà Mạc gồm: Minh Đức thông bảo, Minh Đức nguyên bảo, Đại Chính thông bảo, Quảng Hòa thông bảo, Vĩnh Định thông bảo, Vĩnh Định chí bảo do 4 vị vua đầu tiên phát hành. Vị vua cuối cùng Mạc Mậu Hợp tuy có thời gian ở ngôi lâu nhất thời Nam Bắc triều (31 năm) nhưng không được ghi nhận phát hành một đồng tiền nào[29].

Nhà Lê trong vòng 60 năm từ khi khôi phục tới khi đánh thắng nhà Mạc (1533-1592) gồm có 4 đời vua và 7 niên hiệu, nhưng chỉ có một đồng tiền duy nhất đúc thời Lê Trang Tông (1533-1548) là tiền Nguyên Hòa thông bảo[27].